Thực đơn
PT-76 Thiết kếPT-76 có một bố trí xe tăng điển hình: khoang lái ở phía trước, khoang chiến đấu ở trung tâm và khoang động cơ ở phía sau. Kíp lái ba người, người chỉ huy kiêm người liên lạc và pháo thủ. Chỉ huy và bộ nạp được đặt bên trong tháp pháo, chỉ huy ngồi ở phía bên tay trái của súng chính và người nạp đạn ngồi bên phải. Lái xe ngồi ở trung tâm của mặt trước, kính viễn vọng đặt bên dưới súng chính ở phía trên cùng của tấm giáp dốc phía trước thân xe.
Kính ngắm TPKU-2B dành cho chỉ huy xe được lắp trên PT-76 cũng như PT-76B. TPKU-2B cũng được sử dụng trong T-54B cũng như các loại xe bọc thép khác của Liên Xô vì nó là thiết bị mới nhất thuộc loại này vào cuối những năm 1950, tuy nhiên ở PT-76 nó có một số sửa đổi ở tay cầm. Biến thể này của kính tiềm vọng TPKU-2B được sử dụng rộng rãi trong các loại xe hạng nhẹ khác như BRDM-1, BTR-60, BTR-70 và nhiều loại khác, chưa kể đến BTR-50 có nguồn gốc từ PT-76. TPKU-2B có độ phóng đại có thể điều chỉnh với tùy chọn độ phóng đại 1x hoặc 5x. Với độ phóng đại 1x, trường nhìn là 17,5 độ, hoặc giảm xuống 7,5 độ với độ phóng đại 5x. Cách bố trí chung của các mặt kẻ ô giống như trong tất cả các kính ngắm khác của Liên Xô vào thời đó, bao gồm sự hiện diện của một vạch đo khoảng cách, đủ cho người chỉ huy tìm kiếm và ước tính phạm vi mục tiêu ở khoảng cách ngắn đến trung bình.
Đối với xạ thủ, PT-76 có kính ngắm TShK-66, đến PT-76 model 1957 thì dùng loại TShK-66P cải tiến. PT-76B model 1959 thì được trang bị loại TShK-2-66, được thiết kế để ổn định đường ngắm theo chiều dọc thông qua các mối liên kết cơ học với pháo. TShK-66 có độ phóng đại cố định 4x và trường 16 độ.
Vũ khí chính của nó bao gồm một súng 76,2 mm D-56T, tầm bắn khoảng 1,5 km. D-56T là một thiết kế hoàn toàn mới được phát triển vào năm 1949 bởi nhà máy thiết kế số 9, nơi nó nhận được tên gọi LB-62T. Pháo dùng đạn cỡ 76,2x385mm, chung loại đạn với pháo chống tăng ZiS-3 và pháo F-34 trên xe tăng T-34-76. Nòng pháo dài 3,2 mét (tỷ lệ 42 caliber), giống hệt với ZiS-3 và F-34, nên các đặc điểm đạn đạo giống hệt nhau, tạo thuận lợi cho việc huấn luyện và trang bị đạn. Tuy nhiên, D-56T tiên tiến hơn ở chỗ có bộ giảm giật ở đầu nòng và bầu hút khói để ngăn khói thuốc pháo bay ngược lại khoang lái. Năm 1957, D-56T được thay thế bằng khẩu pháo D-56TM mới hơn với bộ giảm giật ở đầu nòng được cải tiến. Pháo có thể nâng và hạ từ -4 đến +30 độ, do đó, cũng như hầu hết các xe tăng Liên Xô, PT-76 không thể bắn hiệu quả từ vùng đất cao hơn.
PT-76 phiên bản đầu được trang bị hệ thống quay tháp pháo bằng điện EPB-4, tốc độ quay tháp pháo tối đa 17 độ mỗi giây. Một trong những nhược điểm lớn nhất của các mẫu PT-76 phiên bản đầu là nó không có hệ thống ổn định và do đó không thể bắn chính xác trong khi xe di chuyển. Mẫu PT-76B được nâng cấp với hệ thống ổn định hai mặt phẳng STP-2P "Zarya" (biến thể từ bộ ổn định STP-2 "Tsiklon" sử dụng trên T-55). Độ chính xác được báo cáo là 1,0 mil theo chiều dọc, và 1,5 mils theo chiều ngang, cung cấp sự cải thiện tương tự về độ chính xác khi bắn. Khi tiếp cận mục tiêu ở khoảng cách 800 - 1.200 mét theo đường thẳng, tỷ lệ bắn trúng đã tăng 5,25 lần, tỷ lệ bắn trúng trong khi di chuyển ở một góc 15 độ so với mục tiêu đã được cải thiện 4 lần. Tóm lại, "Zarya" cho phép PT-76 bắn trúng các mục tiêu loại xe tăng từ tầm ngắn đến trung bình với độ chính xác hợp lý ở tốc độ từ 12 đến 25 km/h và nâng cao tỷ lệ bắn trúng ở cự ly xa hơn.
Xe tăng lội nước PT-76 của Ba Lan tập luyện đổ bộ.PT-76s đang lội nước.A PT-76 trong viện bảo tàng ở Kiev.Một người lính tăng Soviet đang đứng cạnh xe tăng PT-76 của anh, 8/1989.PT-76 mang 40 viên đạn pháo cỡ 76,2x385mm. Cơ số đạn điển hình bao gồm 24 viên đạn nổ mảnh chống bộ binh và lô cốt (Frag-HE), 4 viên viên đạn xuyên giáp - nổ (APHE), 4 viên đạn xuyên giáp lõi cứng (APCR) và 8 viên đạn nổ lõm chống tăng (HEAT):
Đạn được nạp bằng tay, tốc độ bắn lý thuyết đạt khoảng 15 phát/phút, còn trong thực tế đạt khoảng 7 phát/phút (có nhiều yếu tố làm giảm tốc độ bắn trong thực tế, ví dụ như xe di chuyển khiến nạp đạn viên đứng không vững, hoặc xạ thủ phải mất thời gian ngắm bắn).
Xe có một súng máy đồng trục SGMT 7,62 mm với 1.000 viên đạn. Tầm bắn tối đa 1.000 mét. Từ năm 1967, súng máy PKT đã được thay thế. Khẩu súng có thể bắn trong khi xe đang nổi.
Giáp của PT-76 làm bằng thép cán nguội có độ bền cao. Tháp pháo của nó có:
Thân xe:
Giáp trước của PT-76 đủ để chống lại đạn súng máy cỡ 12,7 mm, giáp hông thì đủ để chống lại đạn súng máy 7,62 mm và những mảnh đạn pháo nhỏ. Nhưng với đạn 12,7 mm hoặc các mảnh đạn pháo lớn hơn thì giáp của PT-76 có thể bị xuyên thủng ở phía hông.
Đặc biệt, độ nghiêng lớn của giáp trước khiến cho một số loại đạn súng chống tăng có thể bị trượt văng ra, không phát nổ. Tiêu biểu là trận Làng Vây, tất cả các phát đạn từ súng M72 LAW của Mỹ bắn vào những xe PT-76 đều bị trượt ra nên không phá hủy được mục tiêu.
Thực đơn
PT-76 Thiết kếLiên quan
PT-76 PT-76MTài liệu tham khảo
WikiPedia: PT-76 http://www.btlsqsvn.org.vn/Print/3233/Vo-dan-phao-... https://archive.is/20130421221102/www.qdnd.vn/qdnd... https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:PT-76_...